Đời

 

Hôm nay chúng ta sẽ nói chyện đời, v́ đời và đạo là hai mặt của một đồng tiền. Nếu không có đời th́ sẽ không có đạo, đời và đạo nương nhau mà có. Phật pháp bất ly thế gian pháp. Không phải chỉ nói thiền, tịnh, vô ngă, tánh không, v.v... mới là Phật pháp, mà ngay cả những chuyện ăn uống, ngủ nghỉ, gánh nước, bửa củi, lặt rau, rửa chén, quét nhà cũng là Phật pháp. Phật pháp không hẳn chỉ dạy cầu niết bàn, v́ căn cơ chúng sinh khác nhau, đâu phải ai cũng muốn thành A La Hán, Bồ Tát, hay thành Phật hết. V́ thế mới có ngũ thừa Phật giáo: nhân thừa, thiên thừa, thanh văn thừa, duyên giác thừa và bồ tát thừa. Có một kinh điển h́nh như nói về nhân thừa, đó là kinh Thi Ca La Việt (Sigalo-vadasutta), trong đó Phật giảng cho một thanh niên ḍng Bà la môn, con nhà giàu ở thành Vương Xá. Ngoài ra, lúc c̣n tại thế, đức Phật vẫn thường giảng cho các cư sĩ tại gia sống làm sao cho an vui hạnh phúc, giảng cho vua chúa cách an dân trị nước, những kinh này bàng bạc trong các bộ A-Hàm.
Qua những dịp tiếp xúc với Phật tử, tôi thấy có nhiều người khổ v́ t́nh. T́nh ở đây gồm đủ loại: t́nh vợ chồng, t́nh cha con, t́nh anh em, t́nh yêu, t́nh bạn, t́nh đời, v.v... Nhờ có khổ như vậy mới đến chùa học hỏi mong sao hết khổ. Nhưng phần đông lại rơi vào một trường hợp, đó là lấy cảnh chùa làm nơi trốn tránh cuộc đời, trốn tránh bổn phận gia đ́nh, chồng con, v́ chồng con nhiều lúc đă làm ḿnh đau khổ. Hăy nh́n hoàn cảnh của người phụ nữ Việt Nam. Theo truyền thống phong tục tập quán, người đàn bà chỉ biết suốt đời hy sinh cho chồng con, nhưng rồi ít có chồng con nào ư thức được sự hy sinh đó. Nho giáo đă xem nhẹ vai tṛ của người phụ nữ. Cái gọi là t́nh vợ chồng thật ra là nghĩa vợ chồng. Thời xưa, người ta cưới gả nhau ít v́ t́nh, mà v́ môn đăng hộ đối, hoặc t́m chỗ nương thân, sống chung cho đỡ hiu quạnh. Khi kư một hiệp ước sống chung th́ mỗi người phải có bổn phận. Bổn phận làm vợ phải thế này, bổn phận làm chồng phải thế kia. Người phụ nữ phải tam ṭng tứ đức. Nhiều cặp vợ chồng bề ngoài có vẻ hạnh phúc, mỗi người làm đúng bổn phận của ḿnh, nhưng bên trong rất nhạt nhẽo vô t́nh, không có sự thương hiểu lẫn nhau. Tuy sống chung dưới một mái nhà, nhưng trong ḷng th́ cách xa nhau cả ngàn cây số, mỗi người sống riêng trong thế giới của ḿnh. Sống như vậy đâu có vui thú ǵ, đúng là oán tắng hội khổ. Nay ḿnh biết chùa muốn tu, muốn dứt bỏ chồng con, nhưng ai cho phép? Nhiều bà, nhiều cô muốn vào chùa thọ bát quan trai một ngày một đêm nhưng chồng không cho phép. Những ông chồng này nói rằng: muốn tu th́ cứ việc tu, đâu ai cấm, nhưng phải làm tṛn bổn phận người vợ trước đă. Ở đây tôi không thể bênh vực bên nào cả, v́ mỗi khi có sự bất ḥa th́ cả hai bên đều có phần trong đó. Không có ai phải ai trái, mà chỉ có một sự thiếu hiểu biết, không thông cảm, không thực sự thương yêu, và thay vào đó là một sự đ̣i hỏi kẻ khác phải chiều theo ư ḿnh.
Tu học không phải để chạy trốn chồng con. Tu học để tỉnh thức, nhận ra những điều mà trước đây ḿnh không hề hay biết. Nhiều người phàn nàn, chán ngán chồng con, nhưng trước kia ai bắt ḿnh lấy người đó, ai bắt ḿnh đẻ con? Nếu không thương mà lỡ lấy v́ bất cứ lư do ǵ đi nữa th́ ḿnh cũng có 50% trách nhiệm. Nếu thương mà lấy th́ 100% trách nhiệm. Sinh con ra để làm ǵ? Ai bắt? V́ thương yêu hay v́ bổn phận? Những quan niệm như con trai lớn lên phải có vợ, con gái lớn lên phải có chồng, rồi phải sinh con đẻ cái, v.v... đă gây đau khổ cho nhiều thế hệ.
Con người là loài hữu t́nh, tiếng Phạn là sattva, có nghĩa là có t́nh cảm. Ai cũng muốn thương và được thương. Khi thương ai mà được người kia thương lại th́ chúng ta sung sướng. Khi cưới được người ḿnh thương th́ đúng lư ra ta phải sung sướng chứ? Việc hôn nhân cần phải đạt trên nền tảng của t́nh yêu. Thương yêu nhau mới cưới và muốn sống chung với nhau. Ở đây, tôi không bàn đến những cuộc hôn nhân miễn cưỡng, bất đắc dĩ, v́ đương nhiên những cuộc hôn nhân như vậy vô nghĩa, vô t́nh, làm sao đưa đến hạnh phúc được! Nhưng ngay cả những cuộc hôn nhân do t́nh yêu đưa đến đi nữa, sau một thời gian th́ cũng đưa đến sự nhàm chán. Như vậy là sao? Trước kia ở Việt Nam, vấn đề ly dị là điều tối kỵ, dù vợ chồng bất ḥa đánh nhau đến đổ máu cũng phải cắn răng sống chung cho tới chết. Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống chung mà không biết thương yêu nhau, chỉ làm khổ nhau th́ tốt hơn là nên ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi t́m một người t́nh khác để yêu, để cưới và để rồi lại ly dị.
Vấn đề mà tôi muốn nêu lên ở đây là ly dị sẽ cho chúng ta bài học ǵ? Chúng ta hiểu được ǵ? Hay cứ nhắm mắt theo đà, tái diễn lại cảnh khổ. Nhiều lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi t́nh cảm hăy c̣n ướt át? Tôi xin nhấn mạnh một điều là tu không phải là dứt t́nh, mà là chuyển t́nh. Quan niệm chung thường cho rằng tu là dứt hết t́nh như câu kệ xuất gia:
Hủy h́nh thủ chí tiết
Cắt ái từ sở thân
Xuất gia hoằng thánh đạo
Thệ độ nhất thế nhân.
Dứt hết t́nh cảm th́ đâu c̣n là người nữa, tu như vậy để thành gỗ đá chăng? Cây cỏ, núi sông c̣n có t́nh, huống chi là con người.
Chúng ta đau khổ v́ t́nh, v́ t́nh của chúng ta là thứ t́nh ích kỷ, t́nh thương chiếm hữu mang nhiều tính chất ái luyến của ngă và vô minh. Thương mà không biết cách thương, nên làm cho kẻ khác bực bội, khó chịu đau khổ.
Tu là sửa, là chuyển. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ t́nh thương ích kỷ, chiếm hữu thành t́nh thương ban bố vị tha. Vào chùa học đạo mà chỉ biết thương Phật, thương thầy của ḿnh thôi, không biết thương yêu kẻ khác th́ đó đâu phải là tu. Phật là người đại từ, đại bi thương chúng sinh, Phật đâu phải là người vô t́nh. Mặt trời tỏa ánh sáng cho khắp mọi loài, cho cả thế giới, cho khắp vũ trụ, không tỏa riêng cho người giàu, cho nước Mỹ, Canada, hoặc cho riêng trái đất.
Ở Việt Nam trong thời chiến, khi nghe tin người yêu tử trận, nhiều cô nữ sinh ngất xỉu, thấy bầu trời sụp đổ, không c̣n lẽ sống, có cô quyên sinh tự tử. Đó là v́ dồn hết t́nh yêu vào một cá nhân, một đối tượng. Một bà mẹ có đứa con cưng độc nhất, chẳng may nó bị bệnh qua đời, bà ta có thể đau khổ phát điên lên được. Nhưng nếu bà ta có mười đứa con và bà thương yêu mười đứa như nhau th́ chắc chắn là bà sẽ chỉ đau khổ một phần mười mà thôi.
Ở Làng Hồng, vào mùa hè mỗi năm, có rất nhiều gia đ́nh gồm vợ chồng con cái về làng tu học. Thầy Nhất Hạnh giảng dạy những cách thức sống làm sao cho gia đ́nh được hạnh phúc. Có nhiều người 'chuyên tu' phàn nàn rằng thầy không chịu dạy tu mà chỉ dạy hạnh phúc gia đ́nh, thầy chú trọng về đời nhiều quá! Có lẽ những người này cho tu chỉ là tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật thôi. Quan niệm tu như vậy thật là giới hạn. Từ đấy, họ suy ra một ông thầy tu chỉ biết gơ mơ tụng kinh thôi, ngoài ra không biết ǵ về việc đời. Đương nhiên cũng có những thầy tu như thế chứ không phải là không có, nhưng theo Đại Thừa Phật giáo th́ một thầy tu là người da phát nguyện tự lợi, lợi tha, đi vào cuộc đời để cứu nhân độ thế. Ngay cả người cư sĩ sống trong đời cũng chưa chắc hiểu được cuộc đời. Một thầy tu có thể nghiên cứu tâm lư học, phân tâm học, xă hội học, nhân chủng học, v.v... để hiểu rơ những căn bệnh của con người và cũng để dễ dàng độ sinh hơn.
Người cư sĩ tại gia hăy c̣n sống với gia đ́nh, nay học cách thức làm sao cho gia đ́nh được hạnh phúc, đó không phải là tu hay sao? Đây cũng là nhân thừa Phật giáo, hay nói cách khác là nhân đạo (con đường làm người). Nhiều lúc nhân đạo chưa xong mà lại đ̣i ngay Phật đạo.
Tóm lại, sống làm sao cho cuộc đời trở nên đáng sống, có ư nghĩa, có lư tưởng, có thương yêu hiểu biết th́ đó là Đời Đạo. C̣n như chạy theo Đạo mà quan niệm hẹp ḥi, bảo thủ cố chấp, không khoan dung độ lượng th́ đó là Đạo Đời. Có người sống cả đời chỉ để làm một việc lợi ích thôi, như Lăo tử, đến và đi không tung tích, để lại độc nhất một quyển Đạo Đức Kinh giá trị vô cùng, há không phải là một đại thiền sư hay sao?
Đi t́m ư nghĩa
Có bao giờ trong cuộc sống bon chen vội vă hằng ngày, ta dừng lại vài phút và tự hỏi ḿnh sinh ra đời để làm ǵ? Phải chăng là để chạy theo sau đồng tiền, danh lợi, địa vị, t́nh yêu, sắc đẹp, của cải, v.v...? Để lập gia đ́nh, sinh con đẻ cái nối dơi tông đường? Để gây dựng một sự nghiệp? Để tranh đấu cho một lư tưởng chính trị, kinh tế, xă hội, v.v...? Hay là chỉ để đơn giản đi làm kiếm ăn sống qua ngày như bao nhiêu người khác? Để rồi một ngày kia nằm xuống và ra đi với hai bàn tay trắng?
Dừng lại vài phút để tự hỏi hay tự kiểm lại xem cuộc đời ḿnh đang sống đây có ư nghĩa ǵ không? Ḿnh có hài ḷng với những ǵ ḿnh đang có và đang sống không? Những cái đó có đem lại cho ḿnh hạnh phúc hay không? Hay ḿnh chỉ làm một kẻ nô lệ, một người máy rô bô, mặc cho xă hội vật chất lôi kéo và điều khiển?
Ở đây không bàn đến những người vô thần vô đạo, chủ trương duy vật, sống chỉ để hưởng thụ, chết là hết. Ngay trong Phật giáo, đa số cho rằng sinh ra ở đời là để tạo nghiệp và trả nghiệp, vay trả trả vay măi măi không ngừng. Quan niệm này đúng chứ không sai, đứng trên luật nhân quả th́ mỗi khi ta cử động, nói năng hay suy nghĩ một chút, dù chỉ vài giây thôi cũng là tạo nghiệp, và như vậy th́ đương nhiên sẽ gặp quả báo, tránh sao cho khỏi. Nhưng quan niệm này nếu không khéo th́ có thể khiến cho người ta trở nên thụ động, gặp việc ǵ cũng đổ thừa tại nghiệp rồi ngồi yên chịu trận.
Cuộc đời đă lắm khổ đau, sao ta không t́m những quan niệm khác giúp ta lạc quan hơn trong cuộc sống? Đối với tôi, con người sinh ra ở đời là để học hỏi những kinh nghiệm để tiến hóa. Mỗi kiếp sinh ra là một lớp học. Ta có thể chọn học một hoặc nhiều môn, nhưng bài học phải được hiểu và học cho xong th́ mới được lên lớp.
·       Ta lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa măn t́nh cảm nhục dục hay lấp vá cô đơn, mà là để học sự thương yêu và sống chung ḥa hợp.
·       Ta sinh con đẻ cái không phải để tiếp nối gịng dơi hay để nhờ vả khi về già, mà là để chính ta tập học làm cha làm mẹ, tập thương yêu dạy dỗ giúp đỡ con cái.
·       Ta làm vua hay tổng thống một nước không phải để ăn trên ngồi trốc, bóc lột của dân, mà là để học thương dân trị nước.
·       Ta làm bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ  không phải để có nhiều tiền hay danh vọng, mà là để học cách giúp đỡ thương yêu bệnh nhân.
·       Ta làm bác học, kỹ sư không phải để chế ra những vũ khí máy móc sát nhân hay nô lệ hóa con người, mà là để đóng góp xây dựng cho cuộc đời bớt khổ về vật chất.
·       Ta có thể tiếp tục nói về từng nghề, nhưng tóm lại th́ tất cả nghề nghiệp trong đời, từ cùng đinh hạ tiện cho đến quư phái sang trọng, không có nghề nào thực sự hơn nghề nào, v́ nghề nào cũng có giá trị và cùng đóng góp cho sự tiến hóa của nhân loại, nếu như ta đứng trên quan niệm đời là một trường học tiến hóa.
Trong kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn, đức Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh và đều sẽ thành Phật, vậy nếu nói theo tinh thần Pháp Hoa th́ mỗi kiếp sinh ra đời là mỗi kiếp cho ta cơ hội học hỏi để tiến dần đến Phật quả.
C̣n một quan niệm nữa, đó là không phải ai sinh ra đời cũng để tạo nghiệp vay trả trả vay, hoặc để học hỏi tiến hóa. Có những người đă học xong hoặc đă tiến hóa rất xa so với người thường, họ quay trở lại thế gian hay cơi Ta Bà với một sứ mạng cứu nhân độ thế, hay nói cách khác là giúp nhân loại tiến hóa. Những người này không hẳn phải là những giáo chủ nổi tiếng như Phật, Chúa, Mahomet, Khổng tử, Lăo tử, v.v... hoặc các vị lama Trulku Tây Tạng, mà là những người thường sống ngay bên cạnh chúng ta.
Điều quan trọng cần nhấn mạnh là chúng ta có muốn tỉnh thức để học hỏi tiến hóa hay không? Hay là tiếp tục sống đời vay trả trả vay, sống như những đàn cừu, như những người máy!?

   
Thích Trí Siêu